Hoàng Tụy
Thật
là vinh dự lớn cho một người làm khoa học bình thường như tôi được nhận
giải thưởng văn hoá Phan Châu Trinh cao quý. Vinh dự lớn trước hết vì
giải thưởng gắn liền với tên tuổi một nhà ái quốc vĩ đại của dân tộc,
một sĩ phu thuộc lớp cựu học nhưng đã thoát ra khỏi những quan niệm giáo
dục phong kiến cổ hủ đương thời, khởi xướng đường lối canh tân văn hoá,
giáo dục để cứu nước: khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Vinh dự
lớn còn là không phải giải thưởng hay huân chương trong hệ thống hành
chính Nhà Nước mà là giải thưởng được trao cho bởi một tổ chức xã hội
dân sự, với ý nghĩa cao quý thúc đẩy sự nghiệp văn hoá giáo dục của nước
nhà theo tinh thần khai hem của nhà ái quốc vĩ đại.
Làm
khoa học ở một đất nước nghèo khó tôi vốn có duyên nợ nhiều với giáo
dục. Xuất thân là một thầy giáo trung học rồi dần dần tự mày mò học tập,
nâng cao trình độ mà trưởng thành trong nghề và trở thành một nhà khoa
học. Bắt đầu dạy học ở tuôi 20, đến nay đã ngoài 80, suốt hơn 60 năm đó
tôi chưa lúc nào xa rời nghề dạy học, tuy học trò của tôi thì tuổi tác,
tính chất, trình độ và cả quốc tich cũng ngày càng đa dạng. Được
may mắn (chứ không phải rủi ro) học phổ thông ở nhà trường thời thực
dân (nhưng không phải nhà trường thực dân), ra đời cũng được đi đây đi
đó học, dạy, làm việc trong những môi trường đại học khoáng đạt hiện đại
từ Tây sang Đông trên thế giới nên tôi thường có dịp suy ngẫm về nghề
nghiệp của mình.
Suy ngẫm từ vị trí công dân một nước nghèo, lạc hậu, khát khao mau chóng
đuổi kịp một nhân loại đang rộn rịp chuyển lên nền văn minh trí tuệ đầy
thách thức. Điều đó tự nhiên dẫn đến mối quan tâm trăn trở gần như
thường trực đối với nền giáo dục của nước nhà. Mà cũng từ đó được mở
rộng tầm mắt, có cách nhìn hệ thống đối với nhiều vấn đề giáo dục, kinh
tế, văn hoá, xã hội của đất nước. Hồi còn anh Tạ Quang Bửu làm Bộ trưởng
Đại Học tôi đã có nhiều dịp nghiên cứu và trình bày về tư duy hệ thống
trong các xêmina giáo dục do anh ấy chủ trì. Những tư tưởng, quan niệm
của tôi về giáo dục, văn hoá, kinh tế xã hội ngay từ những ngày ấy phần
lớn đều xuất phát từ cách nhìn hệ thống đó cho nên ít nhiều cũng có tính
hệ thống nhất quán, nếu có lúc cần thay đổi thì cũng do logic sự vật
chứ không tuỳ hứng, tuỳ tiện, tuỳ thời.
Một
thế kỷ nay chưa bao giờ vai trò then chốt của giáo dục trong sự phát
triển của dân tộc ta nổi rõ như lúc này. Chỉ trong vòng một thế hệ mà
những bước tiến khổng lồ của khoa học và công nghệ đã mang đến cho cuộc
sống trên hành tinh những đổi thay sâu sắc hơn cả hàng trăm năm. Trong
bối cảnh ấy giáo dục càng quan trọng thiết yếu hơn bao giờ hết cho bất
cứ xã hội nào, kể cả những xã hội tân tiến nhất.
Việt
Nam không là một ngoại lệ. Nên dù trước mắt kinh tế có khó khăn bức
bách bao nhiêu cũng không cho phép chúng ta một phút được lơ là các vấn
đề giáo dục. Chừng
nào giáo dục còn yếu kém tụt hậu như hiện nay thì dẫu có tăng trưởng
kinh tế giữ được tốc độ 7-8%, thậm chí 10% năm chăng nữa đất nước cũng
vẫn mãi mãi lẹt đẹt sau thiên hạ. Muốn
tăng trưởng kinh tế bền vững, muốn chuyển hướng phát triển từ chiều
rộng sang chiều sâu mà để giáo dục yếu kém thì chỉ là nói suông. Ông Lý
Quang Diệu từng khuyên chúng ta: thắng trong giáo dục thì mới thắng
trong kinh tế. Gần đây ông đại sứ Hoa Kỳ sau nhiệm kỳ công tác ở Việt
Nam cũng nhận xét thách thức lớn nhất của Việt Nam hiện nay là giáo dục.
Không phải họ hù doạ chúng ta, cũng chẳng phải họ cung cấp cho chúng ta
thông tin gì mới mẻ tân kỳ. Họ chỉ nói cho ta biết một điều mà từ nhiều
năm rồi ngay chuyên gia trong nước đã có không it lời cảnh báo tương
tự. Chẳng qua Bụt nhà không thiêng thì mới cầu tới Bụt ngoài.
Cho nên dù nhiều người đã nói nhiều lần rồi tôi cũng xin nhắc lại lần nữa: chỗ nghẽn lớn nhất trong phát triển hiện nay của xã hội ta là giáo dục. Giáo dục và giáo dục, không có gì quan trọng hơn. Và vì vậy cải cách giáo dục mạnh mẽ, toàn diện và triệt để là mệnh lệnh cuộc sống. Càng
chần chừ, càng trì hoãn càng trả giá đắt, và không loại trừ đến một lúc
nào đó sẽ là quá trễ như đã từng xảy ra tại nhiều nơi trên thế giới.
Đó
là nội dung thiết yếu hai bản kiến nghị mà một nhóm trí thức quan tâm
tới vận mệnh đất nước đã gửi Trung Ương Đảng, Quốc Hội và Chính Phủ năm
2004 và năm 2009 (bản Kiến nghị 2004 đã được phổ biến rộng rãi, còn bản Kiến nghị 2009 chưa được nhiều người biết do bị hạn chế phổ biến).
Như
chúng ta còn nhớ, cách đây 15 năm từng có nghị quyết lịch sử của Hội
Nghị TƯ II, khoá 8, xem phát triển giáo dục, khoa học là quốc sách hàng
đầu. Nhưng mười năm sau đó, Thủ Tướng Chính Phủ đã phải thẳng thắn thừa
nhận chúng ta chưa thành công trong hai lĩnh vực nêu trên. Cho nên các
nghị quyết Đại Hội X và ba Hội Nghị TƯ sau đó đều nhắc lại nhiệm vụ khẩn
thiết cải cách giáo dục để ra khỏi cuộc khủng hoảng kéo dài mấy thập
kỷ. Đặc biệt sau những lời hứa hoa mỹ của ông tân Bộ Trưởng GD và ĐT năm
2006, nhiều người trong đó có tôi đã đặt niềm tin ngây thơ vào triển
vọng công cuộc chấn hưng giáo dục có thể bắt đầu chuyển động. Tiếc
thay, hy vọng chưa kịp nhen nhóm thì thất vọng đã mau chóng đến, lần
này lo lắng nhiều hơn vì chưa bao giờ giáo dục chạy theo thành tích dễ
dãi được quảng cáo ầm ĩ thiếu trung thực lại ngốn nhiều công sức, tiền
của mà hiệu quả thấp như 5 năm qua.
May
thay, sự kiện Ngô Bảo Châu đã tạo một cú hích, it nhất về nhận thức.
Sau một thời gian ngắn được ngộ nhận là thành tich đặc biệt của giáo
dục, sự kiện này cuối cùng đã cho thấy rõ quá nhiều vấn đề cần suy nghĩ
lại nghiêm túc và tỉnh táo hơn về nhà trường của chúng ta. Đáng
mừng là lần đầu tiên sau nhiều năm chờ đợi, người dân đã được nghe Thủ
Tướng long trọng tuyên bố cần một cuộc cải cách giáo dục mạnh mẽ, toàn
diện, triệt để, để chấn hưng đất nước.
Với niềm hân hoan như đã lâu chưa hề có, tôi đã lắng nghe bài diễn văn
buổi tối đó của Thủ Tướng, y như người đang khát giữa trưa hè nóng bức
mà được uống bát nước chè tươi.
Sau
tuyên bố của Thủ Tướng, nguyên Phó Chủ Tịch Nước Nguyễn Thị Bình cũng
đã lên tiếng đầy sức thuyết phục kêu gọi thực hiện cải cách giáo dục để
tiến lên một nền giáo dục trung thực, lành mạnh và hiện đại, đáp ứng
nguyện vọng chính đáng của người dân và yêu cầu cấp thiết chấn hưng đất
nước. Nhiều bậc thức giả khác đã hưởng ứng lời kêu gọi đó. Ai nấy đều
tin rằng đã đến lúc cần kết thúc giai đoạn đổi mới vụn vặt, chuyển sang
cải cách mạnh mẽ thì giáo dục mới có thể ra khỏi bế tắc, trì trệ. Trong
một buổi làm việc hơn hai giờ vào khoảng giữa tháng 11, tôi cũng đã cố
gắng thuyết phục Bộ Trưởng GD và ĐT Phạm Vũ Luận hãy nhân cơ hội này
nhận nhiệm vụ lịch sử khởi động công cuộc cải cách giáo dục đã được đề
ra trong các nghị quyết lớn của TƯ.
Trước hết hãy có một cách tiếp cận mới đối với một số vấn đề nhức nhối nhất hiện nay như thi cử, tổ chức trung học phổ thông và dạy nghề, tuyển chọn GS, PGS, xây dựng đại học đăng cấp quốc tế, v.v.
Tuy
nhiên cho đến giờ phút này, nghĩa là gần nửa năm trời sau tuyên bố mạnh
mẽ của Thủ Tướng tình hình vẫn im ắng. Một chủ trương đúng đắn có ý
nghĩa then chốt chiến lược đến như vậy, lại đã long trọng hứa hẹn với
dân nhiều lần, mà đấu tranh thực hiện cũng gian khổ chẳng khác gì việc
đòi giảm sưu cao thuế nặng thời thực dân phong kiến hay sao ? Tôi thật
sự lo lắng khi thấy bất chấp mọi lời khuyên, cỗ máy giáo dục già nua cổ
lỗ vẫn tiếp tục vận hành ì ạch mà chưa thấy tín hiệu gì sẽ có thay đổi. Đến
hẹn lại lên, cả nước lại chuẩn bị lao vào địa ngục thi cử với biết bao
tốn kém, lo âu, để rồi như mọi năm hàng chục vạn học sinh sau 12 năm đèn
sách bị ném bơ vơ ra đời, không nghề nghiệp mà cũng chẳng có nơi nào
học tiếp, cùng với hàng vạn sinh viên sau 3,4 năm đại học vẫn bỡ ngỡ
ngay cả với những việc làm rất thường mà ở các nước khác chỉ đòi hỏi một
học vấn trung cấp.
Tại
sao thanh thiếu niên ta phải chịu thiệt thòi lớn như vây ? Tại sao đã
36 năm ròng rã từ ngày thống nhất đất nước mà giáo dục đến nông nỗi này ?
Hiển nhiên có nhiều nguyên nhân nhưng điều dễ thấy nhất là một đất nước mà người dân tin rằng “cái gì tiền không làm được thì nhiều tiền sẽ làm được” - một đất nước như thế thì giáo dục tụt hậu là tất yếu. Suy
cho cùng sự nghiệp chấn hưng giáo dục tuỳ thuộc quyết định vào cuộc đấu
tranh chống tham nhũng. Chừng nào tham nhũng còn nặng thì dối trá, lừa
đảo còn phổ biến khắp hang cùng ngõ hẻm, làm sao giáo dục có thể trung
thực, lành mạnh được, nói chi đến hiện đại. Chống tiêu cực trong thi cử,
chống bệnh thành tích ư ?
thì đó, năm đầu làm nghiêm thì hàng loạt thí sinh trượt, năm sau bắt
đầu dễ dãi thì tỉ lệ thi đỗ tăng, năm sau nới rộng nữa thì đạt tỉ lệ thi
đỗ cao ngất ngưỡng như ban đầu, thế là chứng minh chất lượng giáo dục
đã đựơc nâng cao, giáo dục đã đạt siêu thành tích. Còn
mua bằng, bán điểm, chạy trường, chạy dự án, chạy chức, thứ gì cũng
chạy được, chạy bằng chân, bằng đầu, bằng vốn tự có, hay gì gì đó thì đố
ai biết qui mô đến đâu. Có điều chắc chắn là những chuyện tiêu cực
trong giáo dục và kèm theo đó, bạo lực học đường chưa hề giảm mà có phần
phát triển bạo liệt tinh vi hơn, có nguy cở trở thành một nét văn hoá
tiêu biểu của xã hội ta hiện nay.
Giáo dục là một hệ thống phức tạp,
theo nghĩa khoa học của từ này, cần phải được tiếp cận và vận hành như
một hệ thống phức tạp mới có hy vọng tránh khỏi sai lầm, thất bại. Lãnh
đạo, quản lý giáo dục mà thiếu tư duy hệ thống, thiếu môt tầm nhìn chiến lược bao quát thì chỉ có sa vào sự vụ, nay thế này mai thế khác, “đổi mới” nhưng vụn vặt, chắp vá, không nhất quán, rốt
cục tiêu tốn nhiều công sức tiền của mà kết quả chỉ làm rối thêm một hệ
thống vốn đã què quặt, thiếu sinh khí, thường xuyên trục trặc.
Trong một thế giới biến chuyển cực kỳ mau lẹ, chỉ chậm một vài năm đã có
thể gây thiệt hại đáng kể, huống chi mấy thập kỷ liền hầu như giẫm chân
tại chỗ và loay hoay với những vấn nạn nhức nhối kéo dài hết năm nầy
qua năm khác.
Không đâu cần bốn chữ cần kiệm liêm chính hơn lĩnh vực giáo dục. Cũng không đâu cần tư duy phê phán, cần tự do, sáng tạo hơn
ở đây. Một nền học đã thiếu vắng các đạo đức và đức tính cơ bản ấy tất
nhiên sớm muộn cũng biến chất và lâm vào bế tắc. Khi ấy những điều chỉnh
cục bộ theo kiểu đổi mới từng việc vụn vặt như vừa qua không những
không có tác dụng mà còn làm kéo dài hem tình trạng trì trệ. Lúc này lối
ra duy nhất cho giáo dục là cải tạo cấu trúc, xây dựng lại từ gốc, thay
đổi cả thiết kế hệ thống. Chỉ có như thế mới mong cứu giáo dục thoát ra
khỏi khủng hoảng triền miên.
Không đi sâu vào những việc quản lý cụ thể tôi chỉ xin nêu một số vấn đề ở tầm chiến lược về chất lượng giáo dục. Dù
bảo thủ đến đâu, dù thoát ly thực tế cuộc sống đến đâu, ai cũng phải
công nhận chất lượng giáo dục của ta quá thấp. Thấp như thế nào và làm
gì để nâng cao chất lượng thì lại có nhiều cách nhìn thiển cận, phiến
diện, sa vào chi tiết vụn vặt không thực chất.
Thứ nhất là chuyện học và thi.
Năm nào bàn chuyện này cũng có nhiều đề xuất cải tiến nhưng càng bàn
càng rối mà chưa thấy hướng ra đúng đắn. Học thì cứ miêt mài nhồi nhét
nhiều thứ vô bổ, nhưng lại bỏ qua nhiều điều cần thiết trong đời sống
hiện đại. Thi thì mãi vẫn một kiểu thi cổ lỗ, biến thành khổ dịch cho
học sinh nhưng là cơ hội kinh doanh, làm tiền cho một số người. Không
phải học mà thi mới là chính, học chỉ để đi thi, để có bằng, thậm chí
không học mà có bằng thì càng tốt. Đặc biệt thi tốt nghiệp nặng nề như
chưa hề thấy đâu trên thế giới văn minh. Tuy
đã có không ít hội nghị bàn thảo về cải tiến phương pháp giảng dạy, cho
đến nay chủ yếu vẫn chỉ là dạy trên lớp, thầy đọc, trò ghi và bám sát
sách giáo khoa. Trong khi đó, với cách nhìn toàn cục có thể thấy rõ cốt
lõi của chuyện học và thi ở chỗ khác. Đã sang thế kỷ 21 nhưng giáo
dục của ta vẫn giữ nhiều quan niệm cổ hủ như thời phong kiến nho giáo
hay thời trung cổ ở Châu Âu, nặng tính giáo điều kinh kệ, vì nhằm mục
tiêu thiển cận biến con người thành một phương tiện sử dụng vào các mục
đích tôn giáo hay chính trị, hơn là hoàn thiện con người như một chủ thể
tự do. Phương Tây đã có thể nhanh chóng bước lên giai
đoạn phát triển văn minh công nghiệp hiện đại trong khi Phương Đông còn
ngủ dài trong văn minh nông nghiệp chính là nhờ họ đã sớm thế tục hoá
giáo dục. Thiết nghĩ một giải pháp tương tự cũng cần nghiên cứu cho nhà
trường Việt Nam để bước vào kinh tế tri thức thời nay.
Thứ hai là chuyện đào tạo theo nhu cầu xã hội. Các
doanh nghiệp thường phàn nàn gặp nhiều khó khăn khi tuyển nhân lực cần
thiết vì trình độ, năng lực thực tế của sinh viên do các trường đào tạo
ra quá thấp so với yêu cầu của họ. Trong khi đó, hàng năm có hàng chục
vạn học sinh, sinh viên ra trường không tìm được việc làm thích hợp. Mặc
cho khẩu hiệu “nói không với đào tạo không đạt chuẩn, không đáp ứng nhu
cầu xã hội”, và một số biện pháp đổi mới quản lý giáo dục, chất lượng
đào tạo vẫn giẫm chân tại chỗ từ hàng chục năm nay. Quá nhiều trường đào
tạo về kinh tế, tài chính, kế toán, ngân hàng, v.v. nhưng rất ít trường
về công nghệ, kỹ thuật, khoa học. Quá nhiều đại học, cao đẳng kém chất lượng, nhưng rất it trung cấp kỹ thuật.
Cơ cấu đào tạo khiến trong nước rất thiếu công nhân lành nghề, rất
thiếu cán bộ kỹ thuật trung cấp giỏi, nhưng thừa kỹ sư, cán bộ quản lý
tồi. Không lạ gì có nhà đầu tư nước ngoài từng nhận xét: chúng
ta nói nhiều về công nghiệp hoá nhưng ngay một chiếc đinh vít cũng chưa
có nơi nào trong cả nước làm được đúng chuẩn quốc tế. Công
nghiệp phụ trợ không phát triển nổi, muốn làm ra sản phẩm công nghệ gì
tinh vi đôi chút cũng phải nhập phần lớn linh kiện, bộ phận và các sản
phẩm trung gian. Rốt cục chỉ lắp ráp là chính thì bao giờ mới xây dựng
được công nghiệp hiện đại. Sự thể nghiêm trọng đến mức chuyên gia Nhật
đã khuyến cáo: vận mệnh ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam không chỉ ảnh
hưởng đến tương lai phát triển kinh tế của Việt Nam mà còn ảnh hưởng
đến địa vị chính trị của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á.
Mà với cơ cấu đào tạo nhân lực như hệ thống giáo dục hiện nay thì không
cách nào phát triển công nghiệp phụ trợ. Cho nên có nhìn rộng ra cả nền
kinh tế mới thấy vấn đề đào tạo theo nhu cầu xã hội không chỉ là cải
tiến khâu đào tạo ở cấp đại học hay cao đẳng mà phải cải tổ cơ cấu hệ thống giáo dục,
theo hướng như đã trình bày trong bản Kiến nghị 2009: sau trung học cơ
sở phần lớn học sinh sẽ vào trung học nghề, trung học kỹ thuật, chỉ một
tỉ lệ nhỏ vào trung học phổ hem. Bản
thân trung học phổ thông cũng cần được cải tổ theo hướng không phân ban
cứng nhắc mà có nhiều lựa chọn cho học sinh phát triển năng khiếu sở
thích, nhờ đó nâng cao chất lượng đầu vào đại học, tạo điều kiện nang
cao chất lượng đại học . Như vậy, sau 12 năm học, học sinh nếu ra
đời thì đã có nghề, còn số có thể tiếp tục học sẽ không bị nhiều rào
cản do cánh cửa chật hẹp của đại học hiện nay.
Thứ ba là xây dựng đại học. Vị
trí và tính chất của giáo dục đại học trong sự phát triển của các quốc
gia ngày nay đã thay đổi rất nhiều so với chỉ cách đây vài thập kỷ. Nói giáo dục là thách thức lớn nhất cho đất nước hiện nay thì trước hết đó là giáo dục đại học.
Trong một thế giới toàn cầu hóa, xây dựng đại học tất nhiên phải hướng
tới và tuân thủ các chuẩn mực quốc tế trong mọi lĩnh vực. Trong
khi đó, từ việc đào tạo tiến sĩ, việc tuyển chọn giáo sư, đánh giá các
công trình khoa học, các nhà khoa học, các trường đại học, đến nay chúng
ta vẫn giữ nhiều tiêu chuẩn riêng chẳng giống ai.
Mặc dù đã trải qua mấy chục năm trời xây dựng, đại học của ta vẫn còn
ngổn ngang rất nhiều vấn đề đòi hỏi không chỉ phải đổi mới mà phải thay
đổi tận gốc, từ chiến lược phát triển cho đến cách thực hiện chiến
lược.Trong đó việc xây dựng các đại học tiến lên đẳng cấp quốc tế đang
gặp nhiều khó khăn, lúng túng, trước hết là về quan niệm. Nếu không kịp
thời khắc phục thì căn bệnh thành tich phô trương cộng với tính vô
trách nhiệm ở đây sẽ gây lãng phí lớn, làm chậm lại thay vì thúc đẩy quá
trình tiến lên hiện đại theo tinh thần khai hem.
Thứ tư và cuối cùng nhưng then chốt nhất là chính sách đối với đội ngũ giáo chức.
Không có khâu quản lý nào thể hiện rõ hơn quyết tâm chấn hưng giáo dục
bằng chính sách đối với thầy giáo. Thế nhưng hiếm có nơi nào trên thế
giới và cũng hiếm có thời nào trên đất nước ta người thầy mặc dù bị đối
xử bất công vẫn tận tuỵ gắn bó với nghề như trong mấy chục năm nay. Khi
nói điều này không phải tôi không biết những gương xấu trong ngành,
những con sâu làm rầu nồi canh. Nhưng tôi nghĩ số đó vẫn là số ít, số ít
đáng ngạc nhiên nếu đặt trong hoàn cảnh xã hội và điều kiện làm việc
cực kỳ khó khăn của tất cả thầy giáo của ta. Tôi tin rằng với những hoàn
cảnh như thế ở các nước khác tình hình giáo dục phải bi đát hơn nhiều.
Với chính sách đối với thầy giáo như của ta mà giáo dục còn được như thế
này đó thật sự là kỳ công.
Song
cái gì cũng có giới hạn, kể cả lòng tự trọng, thiện chí và … lương
tâm. Cứ thế này e sẽ đến lúc lương tâm cũng chai lì, chẳng còn ai biết
xấu hổ, để cho cái lá nho cuối cùng cũng không giữ nổi thì sẽ mất hết,
chẳng còn gì để bàn về giáo dục, văn hoá, khoa học nữa. Tôi cũng hiểu và
thông cảm với những khó khăn thực tế liên quan đến tham nhũng. Song có
thể nói không quá đáng, kinh nghiệm hơn ba mươi năm qua đã cho thấy hầu
hết mọi căn bệnh tàn phá giáo dục đều có nguồn gốc ít nhiều ở cái chính
sách bỏ mặc rồi khuyến khich thầy giáo tự bươn chải để kiếm sống mà làm
nghề, trong một môi trường đòi hỏi họ phải toàn tâm toàn ý mới làm tót
được nhiệm vụ. Vậy nên giải quyết cái u nầy là điều kiện
tiên quyết mở đường cho giáo dục (và khoa học) thật sự trở thành quôc
sách hàng đầu. Tuy nhiên cũng phải cắt u một cách an toàn vì nếu làm
không minh bạch đường hoàng như hiện nay thì chỉ gây thêm hỗn loạn, cũng
rất nguy hiểm.
Để kết thúc, xin
bày tỏ niềm tin cải cách giáo dục mạnh mẽ, toàn diện, triệt để là giải
pháp cứu nguy cho giáo dục, cũng là cứu nguy cho phẩm chất Việt Nam khi
còn chưa quá trễ.
Và một lần nữa xin trân trọng cám ơn Quỹ Văn Hoá Phan Châu Trinh.
Copy tại
http://caulongbachai.multiply.com/journal/item/10209/10209
có tham khảo thêm tại trang của GS. Nguyễn Đăng Hưng.
No comments:
Post a Comment